2024 Tác giả: Elizabeth Oswald | [email protected]. Sửa đổi lần cuối: 2024-01-13 00:14
Lý thuyết Điều dưỡng Thiếu hụt Tự Chăm sóc, còn được gọi là Mô hình Điều dưỡng Orem, được phát triển bởi Dorothea Orem từ năm 1959 đến 2001. Nó được coi là một lý thuyết điều dưỡng vĩ đại, có nghĩa làlý thuyết bao hàm phạm vi rộng với các khái niệm chung có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp điều dưỡng.
Orem có phải là một lý thuyết vĩ đại không?
Lý thuyết điều dưỡng thiếu hụt tự chăm sóc làmột lý thuyết điều dưỡng lớnđược phát triển từ năm 1959 đến năm 2001 bởi Dorothea Orem. Lý thuyết này còn được gọi là Mô hình Điều dưỡng của Orem. Nó đặc biệt được sử dụng trong các cơ sở phục hồi chức năng và chăm sóc ban đầu, nơi bệnh nhân được khuyến khích càng độc lập càng tốt.
Mục đích của lý thuyết của Orem là gì?
Lý thuyết thiếu hụt tự chăm sóc củaOremcho thấy bệnh nhân có khả năng phục hồi tốt hơn khi họ duy trì một số độc lập đối với việc tự chăm sóc của mình. Lý thuyết này, thường được áp dụng trong lĩnh vực điều dưỡng, được nghiên cứu trong các chương trình Thực hành Y tá Bác sĩ (DNP).
Lý thuyết điều dưỡng tổng thể là gì?
Lý thuyết Điều dưỡng Lớn - Những loại lý thuyết này dựa trên các khái niệm rộng, trừu tượng và phức tạp. Họcung cấp khuôn khổ chung cho các ý tưởng điều dưỡng liên quan đến các thành phần như con người và sức khoẻ. Những lý thuyết này thường xuất phát từ kinh nghiệm của chính một nhà lý thuyết y tá.
Lý thuyết nhu cầu có phải là lý thuyết lớn không?
Theo Nicely và DeLario (2010) VirginiaLý thuyết của Henderson, Cần dựa, bắt nguồn từ Các Nguyên tắc và Thực hành Điều dưỡng làmột lý thuyết lớn tập trung vào chăm sóc điều dưỡng và các hoạt động sống hàng ngày.
Đề xuất:
Tại sao viết một bài khái niệm một cách thuyết phục lại quan trọng?
Tất cả các dự án nghiên cứu đều cần một bài báo khái niệm: một bản tóm tắt ngắncho người đọc biết dự án là gì, tại sao nó quan trọng và nó sẽ được thực hiện như thế nào. Ngay cả khi không ai khác đọc nó, bài báo khái niệm giúp một nhà nghiên cứu phát hiện ra những lỗ hổng trong dự án của cô ấy hoặc của anh ấy mà sau này có thể gây tử vong.
Tại sao lý thuyết âm nhạc là lý thuyết?
Nhạc lý là một phần quan trọng của nền tảng đối với bất kỳ nhạc sĩ nào vì một số lý do. … Lý thuyết âm nhạc, giống như ngôn ngữ,cho phép chúng ta hiểu cấu trúc và ý nghĩa đằng sau một sáng tác âm nhạc. Thứ hai, lý thuyết âm nhạc cho phép chúng tôi nói chuyện với các nhạc sĩ khác bằng một ngôn ngữ chung.
Lý thuyết của ai đã trở thành nền tảng của hóa học hiện đại?
John D alton John D alton John D alton FRS (/ ˈdɔːltən /; 6 tháng 9 năm 1766 - 27 tháng 7 năm 1844) là một nhà hóa học, vật lý học và khí tượng học người Anh. Ông được biết đến nhiều nhất với việc đưa lý thuyết nguyên tử vào hóa học, và nghiên cứu về bệnh mù màu, đôi khi được gọi là thuyết D alto để vinh danh ông.
Thuyết mormonism có phải là một hình thức của thuyết ngộ đạo không?
Và, mặc dù cáo buộc của Thuyết Ngộ đạo thường bị các Cơ đốc nhân khác nhắm vào họ một cách ác ý,Thuyết Mặc môn có mùi thơm rõ ràng về Ngộ đạo. Giống như những người theo thuyết Ngộ đạo, những người Mormon nghĩ rằng các văn bản truyền thống có quá nhiều sự chuộc tội và quá ít thành tựu.
Các lý thuyết hậu hiện đại xuất hiện trong thời đại nào?
Các đặc điểm cơ bản của cái mà ngày nay được gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại có thể được tìm thấy nhưđầu những năm 1940, đáng chú ý nhất là trong tác phẩm của các nghệ sĩ như Jorge Luis Borges. Tuy nhiên, hầu hết các học giả ngày nay đều đồng ý rằng chủ nghĩa hậu hiện đại bắt đầu cạnh tranh với chủ nghĩa hiện đại vào cuối những năm 1950 và phát triển vượt bậc hơn nó vào những năm 1960.