Rối loạn lưỡng cực, trước đây được gọi là hưng trầm cảm, là một tình trạng sức khỏe tâm thần gây ra tâm trạng bất ổn bao gồm cảm xúc cao độ (hưng cảm hoặc hưng cảm hưng cảm là một dạng hưng cảm ít nghiêm trọng hơn. Ví dụ về thuốc ổn định tâm trạng bao gồmlithium (Lithobid), axit valproic (Depakene), divalproex sodium (Depakote), carbamazepine (Tegretol, Equetro, những loại khác) và lamotrigine (Lamictal). Https://www.mayoclinic.org ›điều trị lưỡng cực› faq-20058042
Điều trị lưỡng cực: Điều trị lưỡng cực I và lưỡng cực II có khác nhau không?
) và mức thấp (trầm cảm).
Bạn có thể có giai đoạn hưng cảm và trầm cảm mà không bị lưỡng cực không?
Mania và hypomania là các triệu chứng có thể xảy ra với rối loạn lưỡng cực. Chúng cũng có thể xảy ra ở những người không ' tbị rối loạn lưỡng cực.
Khi nào thì hưng trầm cảm chuyển sang lưỡng cực?
Sự chuyển đổi sang rối loạn lưỡng cực
Thuật ngữ “rối loạn lưỡng cực” lần đầu tiên được đưa ra trong lần sửa đổi thứ ba của DSM vào năm1980, khi các bác sĩ tâm thần đồng ý loại bỏ với thuật ngữ "hưng cảm trầm cảm." Sử dụng từ "hưng cảm" thường khiến bệnh nhân được mô tả là "người điên", một nhãn hiệu chứa đầy sự kỳ thị và phán xét.
Lưỡng cực từng được gọi là gì?
Tổng quan. Rối loạn lưỡng cực (trước đây được gọi làbệnh trầm cảm hưng cảm hoặc trầm cảm hưng cảm) là một rối loạn tâm thầnđiều đó gây ra những thay đổi bất thường về tâm trạng, năng lượng, mức độ hoạt động, sự tập trung và khả năng thực hiện các công việc hàng ngày. Có ba loại rối loạn lưỡng cực.
Ai là người đầu tiên mắc chứng rối loạn lưỡng cực?
Bác sĩ tâm thần người Pháp Jean-Pierre Falretđã xuất bản một bài báo vào năm 1851 mô tả cái mà ông gọi là “la folie circleaire”, có nghĩa là điên rồ. Bài báo nêu chi tiết những người chuyển qua giai đoạn trầm cảm nặng và hưng phấn, và được coi là chẩn đoán đầu tiên được ghi nhận về chứng rối loạn lưỡng cực.